Ngày đăng: 03:26 PM 18/07/2024 - Lượt xem: 481
Cổng trước tổ đình Bác Ái được xây dựng lại
1. Tên gọi Chùa Bác Ái:
Chùa Bác Ái với tên gọi đầy đủ là Tổ đình Sắc Tứ Bác Ái là cơ sở Phật giáo đầu tiên trên vùng đất Kon Tum. Đây cũng là ngôi chùa được thành lập sớm nhất trên vùng Tây Nguyên lúc bây giờ. Chùa Bác Ái đã hội tụ đủ những giá trị văn hóa lịch sử vừa nêu trên, được xây dựng vào năm 1933, khi bối cảnh lịch sử cũng như nền kinh tế toàn cầu lúc bấy giờ có nhiều biến động như: Chiến tranh, nạn đói, bệnh dịch… diễn ra khắp nơi. Những năm đầu thế kỷ XX, tại Việt Nam, chính quyền bảo hộ thực dân Pháp đang bị sa lầy trầm trọng, họ lại tăng sưu thuế làm cho dân tình càng thêm đói khổ. Hơn nữa, nhằm bổ sung những tổn thất trong các cuộc chiến tranh giành thuộc địa, thực dân Pháp đã ra sức áp bức, bóc lột, người dân lúc bấy giờ lại lâm vào cảnh cơ cực, lầm than. Ở miền Trung Việt Nam, phần lớn người dân vùng đất này phải tha phương cầu thực và chạy lên vùng đất mới ở Kon Tum với hy vọng có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, đây lại là vùng rừng thiêng nước độc nên nhiều người phải bỏ mạng nơi đất khách quê người.
Tổ đình Sắc tứ Bác Ái xưa - Ảnh: Đồng Tri
Trong bối cảnh điều kiện hết sức khó khăn, cùng với mong muốn có một nơi nương tựa về mặt tâm linh nên chính quyền và nhân dân đã cùng chung tay góp sức xây dựng được một ngôi chùa với quy mô về mặt tổng thể, làm nơi tế độ, thờ tự tưởng nhớ những người đã mất. Địa điểm tâm linh này còn là nơi bảo tồn những giá trị văn hóa tinh thần của người dân và cũng là thắng cảnh của địa phương. Với những ý nghĩa đó, chùa Sắc Tứ Bác Ái được hình thành trong một vị trí hết sức đặc biệt ở Kon Tum. Từ đó, trải qua thời gian gần 100 năm hình thành và phát triển, chùa Bác Ái là nơi đã đào tạo hướng dẫn biết bao thế hệ con người với lối sống đạo đức, biết yêu thương chia sẻ.
Bức hoành phi "Sắc tứ Bác Ái Tự" do vua Bảo Đại ban tặng
Bức hoành phi trải qua chiến tranh khói lửa với nhiều vết đạn bắn thủng
Chùa Bác Ái còn là nơi lưu giữ lại những hiện vật có giá trị lịch sử của Triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta. Ngoài ra, chùa cũng là nơi bảo tồn những mộc bản kinh bằng chữ Hán và lưỡng tự Hán Việt. Bên cạnh đó, tại chùa Bác Ái còn có những tấm liễn đối, hoành phi bằng chữ Hán được chạm khắc công phu, được khắc trên những tấm gỗ, cột gỗ có niên đại gần trăm năm, đặc biệt hơn nữa chùa còn lưu giữ những pho tượng được tạo bằng đất nung; nghệ thuật điêu khắc tượng bằng gỗ ngay từ thời kỳ đầu khởi dựng chùa cho đến ngày nay.
Ảnh chụp với lãnh đạo tỉnh đương thời, nhân dịp hoàng hậu Nam Phương, vợ vua Bảo Đại cúng dường đại hồng chung - Ảnh: Đồng Tri
Những năm đầu thế kỷ XX, khi nền kinh tế toàn cầu đang rơi vào khủng hoảng, chính quyền thực dân Pháp cũng không thóat khỏi tình cảnh này. Đối với Việt Nam, Pháp lại tăng sưu thuế, làm cho dân tình càng thêm đói khổ. Nạn đói xảy ra khắp nơi, cộng thêm thiên tai, lũ lụt, hạn hán, làm cho nhân dân miền Trung đã khổ lại càng khổ thêm. Nhân dân tha phương cầu thực, trong số đó, có người lâm vào đường cùng, trèo đèo lội suối lên Kon Tum để tìm kế sinh nhai. Nhưng theo miêu tả trong sách Người Ba Na ở Kon Tum, đường đi nào có dễ dàng, rừng thiêng nước độc, nhiều người phải bỏ mạng nơi đất khách quê người, “cuộc di dân của người An Nam lên đây đã gặp phải nhiều điều khó khăn; mà điều trở ngại lớn nhất là các bệnh hoạn ở đường rừng như sốt rét, kiết lỵ… đã giết không biết bao nhiêu người mà kể” [5, tr. 100]. Những người bình an đến nơi vừa mừng vừa tủi, mừng vì đến nơi an toàn, tủi thân vì rời xa quê cha đất tổ, lên xứ lạ quê người không họ hàng thân thích. Cuộc sống mới có nhiều điều bỡ ngỡ, tín ngưỡng tôn giáo của mình cũng khác, không thể hòa nhập được, không tìm thấy hình bóng ngôi chùa thân quen như ở quê nhà, thiếu vắng tiếng chuông chùa trầm lắng ngân vang, mà đâu đó chỉ nghe được tiếng chuông nhà thờ, làm cho những người lưu lạc cảm thấy da diết trong lòng.
Ngôi chùa kiến trúc kiểu Huế cổ xưa nhất ở Kon Tum
Bên cạnh đó, theo Kon Tum tỉnh chí, vùng đất này tứ phía là rừng già bao phủ, thiên nhiên còn hoang dã, dân nơi khác đến rất khó thích nghi, người chết thì nhiều, sinh ra lại ít, gây ra sự mất cân bằng dân số:“Nhiều chỗ nước độc địa lắm, có người chết mà không sinh ra thêm, và lắm chỗ một làng An Nam ở giữa, còn bao nhiêu thì mọi cả” [7, tr. 31]. Có những làng mới lập ra sau này dân số không tăng mà lại giảm đi, như làng Phụng Sơn khi lập làng có 27 nhân khẩu, 5 năm sau dân số vẫn là 27 người. Làng Ngô Trang sau khi lập làng 10 năm dân số từ 120 giảm xuống còn 60 người.
Trước những điều kiện khó khăn đó, lo lắng của mọi người ngày càng lớn, không biết phải làm thế nào, chỉ còn cách cầu trời khấn Phật che chở cho được bình an. Phần thì áy náy trong lòng vì những người thân đã mất không có nơi để thờ phụng, không có người lo kinh kệ cầu cho được siêu thoát. Trước tình hình như vậy, người dân hai làng Lương Khế và Trung Lương mới làm đơn trình lên quan Quản đạo Kon Tum là cụ Võ Chuẩn, xin lập chùa để thờ Phật và quy y cho các vong linh của người đã chết trên xứ này. “Những người làng ngoại cũng xin phép lập một cái chùa, thờ Phật và quy y các vong linh những người chết mà thân thuộc không thể đem thi hài về xứ được, chùa ấy lấy tên là chùa Linh Sơn” [8, tr. 140].
Quản đạo Võ Chuẩn sinh năm 1895 tại làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông là con trai trưởng của cụ Võ Liêm, Thượng thư bộ Lễ, dưới triều vua Bảo Ðại, mẹ là bà Tôn Nữ Thị Tiếp. Ông bắt đầu nhận chức Quản đạo tại Kon Tum từ năm 1933, đến năm1938 làm Tuần vũ Quảng Ngãi, năm 1940 làm Tổng đốc tỉnh Quảng Nam, phong hàm Thượng thư nhị phẩm. Ông mất năm 1956, hưởng thọ 61 tuổi, hiện tro cốt được thờ tại chùa Vạn Phước, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Bài vị của hai vợ chồng ông được thờ tại chùa Bác Ái. Sinh thời, ông sáng tác nhiều thơ văn, trong đó có 4 bài nói về chùa Bác Ái.
Về cuộc đời của Quản đạo Võ Chuẩn, ông vốn là một nhà Nho sinh trưởng tại Huế, đây là cái nôi của Phật giáo miền Trung, nơi nuôi dưỡng đào tạo ra những vị danh Tăng có nhiều đóng góp cho Đạo pháp và dân tộc. Từ đó, ông có cơ hội tìm hiểu nghiên cứu Phật giáo, qua đó thấm nhuần tinh thần từ bi của Đức Phật. Bên cạnh đó, bà Tôn Nữ Thị Lịch, phu nhân của ông, cũng là một Phật tử thuần thành, phần nào cũng là một nhân tố thúc đẩy ngôi chùa sớm được xây dựng. Trong tập hồi ký năm 1966 của nhà văn Minh Đức Hoài Trinh, con gái của hai vợ chồng quan Quản đạo, tác giả ghi chép như sau: “Nhận thấy cả tỉnh không có một ngôi chùa nào mà dân Phật giáo bắt đầu lên làm ăn buôn bán nhiều hơn trước, ông đạo phải làm đơn về bộ để xin phép được cất một ngôi chùa cho tỉnh. Việc làm này cũng do vợ ông xúi giục bên trong, vì bà là một tín đồ ngoan đạo mà từ khi lên đây đành chịu, không có nơi nào để ngày rằm, mùng Một cho bà đến lễ bái” [37, tr. 87]. Rõ ràng việc lập chùa là mong ước của tất cả nhân dân kể cả quan Quản đạo Kon Tum, đó là những yếu tố cần thiết để thúc đẩy việc thành lập chùa sau này.
This document you requested has moved temporarily.
It's now at http://themes.suckhoevatreem.vn/.