Ngày đăng: 10:17 PM 03/07/2024 - Lượt xem: 379
Chùa Bác Ái được xây dựng theo kiểu kiến trúc hình chữ Môn (門), gồm ba khu nhà ghép lại mà thành, bao gồm chánh điện, trai đường, khách đường dính liền thành một khối; kế bên trai đường là nhà Đông lang; kế bên khách đường là nhà Tây lang. Ngoài ra, còn có những công trình khác như cổng Tam quan. Đối diện hai bên cổng Tam quan là hai dinh nhỏ thờ Thành hoàng bổn xứ và dinh thờ Thần nữ, cuối cùng là khu tháp Tổ.
1.1 Khu chánh điện
Đây là khu trung tâm quan trọng nhất của ngôi chùa, tổng thể kiến trúc chánh điện được xây dựng theo dạng chữ Tam (三) liền thành một khối [Phụ lục 16], mặt quay về hướng Nam tiếp giáp với đường Mạc Đỉnh Chi. Từ ngoài sân, nhìn vào theo thứ tự từ thấp đến cao, đầu tiên là tiền đường hay còn gọi là thiêu hương, được tiếp giáp với chánh điện bằng ba bộ cửa bằng gỗ, mỗi bộ gồm hai cánh cửa, những bộ cửa này được làm từ thời kỳ đầu khi mới xây chùa vào năm 1933. Tiếp theo là chánh điện, phân làm hai điện, gồm điện thượng cao hơn điện trung 80cm, mỗi điện đều có kết cấu bộ khung hoàn toàn độc lập, điện thượng được liên kết với điện trung bằng bốn cây đà ngang, điện thượng qua điện trung phải đi xuống bốn bậc cấp, mỗi bậc cao 20cm. Chùa được thiết kế theo kiến trúc Huế, đây là kiểu nhà rường hay còn gọi là nhà xuyên trính, mang đậm phong cách Triều Nguyễn. Điện thượng và tiền đường là kiểu nhà ba gian hai chái với chiều ngang 11m chiều sâu 5m, diện tích chỉ bằng một nửa điện trung. Điện trung là kiểu nhà năm gian hai chái với chiều ngang là 22m chiều sâu 5m, điện thượng được kết cấu bởi 12 cây cột, điện trung được kết cấu bởi 24 cây cột, tiền đường được kết cấu bởi 8 cây cột. Toàn bộ 44 cây cột gỗ này có đường kính từ 30cm đến 40cm, cao từ 3,5m đến 4,5m được chôn âm dưới đất. Hiện nay, toàn bộ kiến trúc gỗ tại chánh điện chùa Bác Ái vẫn còn khá nguyên vẹn, chưa có dấu hiệu bị mối mọt đục khoét. Những cây cột này là hệ thống chịu lực của tổng thể chánh điện, gánh toàn bộ hệ thống đà ngang được liên kết với nhau bằng những chốt gỗ hay còn gọi là mộng gỗ được làm rất công phu, nhưng không chạm trổ hoa văn, thể hiện được sự thanh thóat không quá nặng nề trong từng chi tiết kiến trúc. Có thể thấy, chùa được làm bởi những thợ Huế nổi tiếng với kỹ thuật rất khéo léo dưới sự hướng dẫn của Quản đạo Võ Chuẩn.
Vách tường được làm bằng đất theo kinh nghiệm xây dựng phổ biến lúc bấy giờ, dùng rơm trộn với đất sét sau đó dùng chân đạp cho thật nhuyễn, cuối cùng trét vào tường nơi có sẵn những song tre, đợi bảy ngày sau cho đất khô đi tiếp theo đó lại dùng đất sét trắng trộn với ít cát trét bên ngoài làm như quét vôi thời bây giờ để tạo ra độ trắng sáng cho bức tường [5, tr. 102], những vách tường này đến năm 1969 đã được thay lại bằng tường gạch đinh không lỗ, kết cấu với nhau bằng xi măng và bốn cây cột gỗ được thay lại bằng cột sắt, hai cây cột gỗ được bọc thêm gạch bên ngoài nhằm tạo thêm sự kiên cố cho ngôi chùa.
Riêng hai chái hai bên của điện trung mỗi bên được làm từ bốn cây cột dài 6m, thiết kế dạng cổ lầu dùng làm lầu để chuông và lầu để trống, trên hai cổ lầu này có nhiều chi tiết hoa văn được làm khá công phu theo kiểu xếp những cây gỗ lại với nhau thành những biểu tượng hoa văn rất đẹp [Phụ lục 17], phía dưới lầu chuông dùng làm trai đường, phía dưới lầu trống dùng làm khách đường.
Toàn bộ khu chánh điện này đều dùng rui mè bằng gỗ chịu lực cho phần mái, mái lợp ngói vảy. Tuy nhiên, vì thời gian lâu năm nên ngói vảy bị hư nát phải thay lại bằng ngói đỏ truyền thống, chỉ còn hai chái lầu chuông và lầu trống là còn giữ nguyên lớp ngói vảy này.
Trên đỉnh của điện thượng chùa Bác Ái có đắp phù điêu hình lưỡng long chầu nhật với chất liệu bằng xi măng đính những mảnh sành sứ cổ tạo nên những nét cách điệu trên nóc chùa. Chính giữa hình mặt trời là hoa văn chữ vạn (卍) [Phụ lục 18].
Về ý nghĩa của phù điêu lưỡng long chầu nhật như sau: Rồng ở đây tượng trưng cho vua chúa, giai cấp thống trị, quyền lực nhưng phải quay về chầu bên mặt trời; mặt trời chữ Vạn tượng trưng cho trí tuệ của Đức Phật. Biểu tượng lưỡng long chầu nhật này có ý nghĩa thể hiện sự quy ngưỡng của vua chúa đối với Đức Phật bởi trí tuệ của Ngài đã vượt qua mọi sự tư duy của con người không một ai trên thế gian này có thể so sánh được, nên mọi người đều quay về nương tựa ở Ngài, ngay cả giai cấp thống trị trong xã hội cũng như thế.
1.2 Khu nhà Đông và Tây lang
Đây là hai dãy nhà được xây dựng cập hai bên hông chánh điện tạo nên kết cấu tổng thể kiến trúc hình chữ Môn (門), hai dãy nhà này được xây dựng sau khi chánh điện hoàn thành, cũng theo kiểu nhà rường ba gian hai chái, mặt tiền hướng vào khu vực sân trước chánh điện. Khu nhà Đông lang dài hơn nhà Tây lang, vì trong nhà này thiết kế tổ hợp nhà bếp và nhà giảng đường bên trong với chiều dài 36m, chiều rộng 10m.
Nhà Tây lang có chiều dài 14m, chiều rộng 10m, nhưng lại có một khu nhà kế bên thường gọi là nhà thất, vì nhà này lúc trước chuyên dành cho các vị cao tăng nhập thất chuyên tâm nguyên cứu giáo lý và hành trì thiền định, ngôi nhà này có một lầu bằng gỗ có sáu cây cột gỗ chịu lực toàn bộ ngôi nhà, lợp bằng ngói vảy cho đến ngày nay vẫn còn nguyên vẹn, với chiều dài 5m rộng 4m, nằm đối diện với nhà bếp và thẳng hàng với nhà Tây lang nên hoàn toàn cân xứng với nhà Đông lang. Hai dãy nhà này hoàn toàn không có phù điêu trên nóc mái, chỉ đơn thuần là kiểu nhà ba gian hai chái truyền thống.
1.3 Cổng Tam quan
Cổng Tam quan lúc đầu xây dựng theo kiểu cổ lầu [Phụ lục 19] gồm ba cổng phía dưới và cổ lầu bên trên chính giữa, trên đỉnh có phù điêu lưỡng long chầu nhật và mỗi góc mái đều có phù điêu hình rồng cỡi mây trông rất cổ kính, bên trong cổng, có hai bức tượng Hộ pháp đứng đối diện nhau. Tuy nhiên, năm 1968, cổng Tam quan này bị phá hỏng bởi chiến tranh.
Năm 1970, Hòa thượng An Chánh đã làm lại cổng Tam quan mới theo kiểu tứ trụ mà không theo kiến trúc cũ. Bên trên cổng cũng có phù điêu lưỡng long chầu nhật, kế bên dưới phù điêu này là ba tòa sen tượng trưng cho Phật, Pháp, Tăng ba ngôi Tam bảo. Trên đỉnh bốn trụ là bốn hoa sen lớn mang ý nghĩa thóat tục không dính bụi trần của Phật giáo, mặt trước và sau của bốn trụ này là những cặp câu đối bằng chữ Hán được đắp nổi lên trên. Bốn trụ này được liên kết lại với nhau bởi ba thanh đà ngang, một thanh đà ngang chính giữa có đắp dòng chữ tiếng Hoa “祖庭博愛寺” (Tổ đình Bác Ái Tự), bên trái là năm xây cổng chùa 1970, bên phải là niên hiệu Phật lịch 2514. Mặt trong của thanh đà ngang này cũng như vậy, phía dưới ba thanh đà ngang này còn có những hoa văn hình chữ vạn và một số hoa văn khác. Thanh đà ngang bên trái và phải cũng đắp nổi hai cặp câu đối cho hai mặt trước và sau. Từ ngoài đường nhìn vào thì cổng Tam quan nằm ngay tim chánh điện, cao hơn mặt đường Mạc Đỉnh Chi khoảng 1,3m.
1.4 Dinh thờ Thành hoàng Bổn cảnh và dinh thờ Thần nữ
Hai dinh thờ này ở hai bên cổng Tam quan nằm đối diện nhau, mặt hướng vào sân chùa, nằm cách hai trụ cổng khoảng 10m, mỗi dinh thờ cao 2,1m, ngang 1,4m, dài 1,4m, mái hình tháp bánh ít lợp ngói vảy. Hai dinh này xây dựng từ thời mới lập chùa, phía trước mỗi dinh thờ đề tên là “英靈” (Anh Linh), chỉ những hương hồn của các anh hùng chiến sĩ, những người có công với đất nước non sông. Hai bên dinh thờ Thành hoàng có hai câu đối chữ Hán“山林是勝景,城偟護國居”(sơn lâm thị thắng cảnh. Thành hoàng hộ quốc cư). Bên trong còn có thờ một bài vị bằng gỗ với nội dung như sau:
Nguyên bản:
奉為山林本境城偟大王上等尊神
奉為立地福德正神 十類孤魂等眾
奉為五記財寶尊神 兼年行愆行兵之神
Dịch nghĩa:
Phụng vì sơn lâm bổn cảnh thành hoàng đại vương thượng đẳng tôn thần.
Phụng vì lập địa phước đức chánh thần, thập loại cô hồn đẳng chúng.
Phụng vì ngũ ký tài bảo tôn thần, kiêm niên hành khiển hành binh chi thần.
Dinh thờ Thần nữ cũng có hai câu đối bằng chữ Hán: “神女千秋春色 金晶萬古機化” (Thần nữ thiên thu xuân sắc, Kim tinh vạn cổ cơ hoa), bên trong dinh thờ có bài vị ghi “神女” (Thần nữ).
1.5 Khu Tháp tổ
Trong Phật giáo, tháp là một kiến trúc độc đáo, đa dạng, thường có hình giống búp măng theo kiểu cao và nhọn dần từ dưới lên. Tháp theo danh từ tiếng Pali gọi là Stupa, tiếng Hoa gọi là 塔, tiếng Phạn gọi là Stoupa. Theo Từ điển Phật học, tháp dùng để cất giữ di cốt của Đức Phật, tháp có từ thời vua Asoka. Để bày tỏ lòng tôn kính của mình đối với Đức Phật, ông đã xây rất nhiều bảo tháp để lưu giữ di cốt của Ngài. Truyền thống này đã tồn tại đến ngày nay, dần dần chuyển thành thờ Tam tạng kinh điển, tiếp đến thờ di cốt của những vị danh Tăng, những vị đã từng Trụ trì trong các ngôi chùa. Tháp thường được xây dựng trong khuôn viên các chùa, được lưu giữ qua nhiều đời, đối với những chùa cổ thường có rất nhiều tháp.
Chùa Bác Ái có hai tháp tổ, tháp thứ nhất thờ những vị tiền bối hữu công xây năm 1940. Hiện nay, tháp này đã bị người dân lấn chiếm, tháp cao 8m, gồm bảy tầng, trên đỉnh có búp sen, tháp có tám cạnh, trên thân tháp có ốp những mảnh sành sứ màu xanh. Tháp thứ hai do Hòa thượng An Chánh xây năm 1984 tên là Thanh Tịnh bảo tháp (清淨寶塔), tháp này mặt xoay về hướng Nam, nằm sau lưng nhà Tây lang, tháp cao 6m với kiến trúc hình bát giác tám cạnh tượng trưng cho tám con đường thánh đạo, tháp có ba tầng tượng trưng cho Phật, Pháp, Tăng ba ngôi Tam bảo. Bảo tháp này được xây bằng xi măng với gạch đinh không lỗ rất kiên cố, có tường rào bao quanh tháp chiều ngang 7,5m chiều dài 8,5m. Tại bốn góc vuông của tường bao có đắp nổi bốn bông sen, trong tường rào này có dựng một tấm bia ghi chép những thông tin liên quan đến hành trạng năm sinh năm mất của Hòa thượng An Chánh.
Thanh Tịnh bảo tháp có đắp một bông sen lớn trên đỉnh, tầng tháp thứ hai và thứ ba ở mỗi cạnh đắp một chữ nỗi lớn ở chính giữa mỗi cạnh, ở tầng thứ hai gồm tám chữ “上品花開果正成即” (Thượng phẩm hoa khai quả chánh thành tức), tầng tháp thứ ba cũng có tám chữ “南無阿彌陀佛證明” (Nam mô A Di Đà Phật chứng minh), mặt sau tháp ghi清淨寶塔 (Thanh Tịnh bảo tháp), mặt tiền tháp có bốn câu đối lấy tên chùa Bác Ái và đạo hiệu của Hòa thượng An Chánh làm từ khởi đầu trong mỗi câu đối, nguyên văn bốn câu như sau:
Nguyên bản:
博大慈悲力.
愛多智慧生.
安居極樂國.
正往淨土邦.
Phiên Âm:
Bác đại từ bi lực.
Ái đa trí huệ sanh.
An cư cực lạc quốc.
Chánh vãng tịnh độ bang.
Chùa Bác Ái có nhiều tượng cổ lâu đời, niên đại cổ nhất là tượng từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII do Triều Nguyễn ban tặng, có những tượng được tạo từ khi mới thành lập chùa. Hiện tại, còn nhiều tượng Phật cổ với nhiều chất liệu khác nhau như: gỗ, gốm sứ, đất nung, đồng.
Chùa được thành lập sớm nhất ở tỉnh Kon Tum nên có sự hỗn dung trong cách thờ phụng, ngoài thờ Phật ra còn có nhiều tín ngưỡng dân gian khác. Cách bày trí thờ phụng trong chánh điện như sau: Trung tâm chánh điện thờ Phật và Bồ Tát. Bên trái và phải là vị trí của Hộ pháp, Thánh, Mẫu… Bàn thờ Phật và Bồ Tát đều quay ra mặt tiền chánh điện, các tượng Hộ pháp và Thành hoàng bổn xứ thì xoay mặt vào bàn thờ Phật.
Từ trên cùng là điện thượng, gồm có ba bàn thờ [Phụ lục 20]. Chính giữa ngay vị trí trung tâm là bàn thờ hội đồng chư Phật chia làm ba cấp, trên cao nhất là thờ bộ tượng Tam thế Phật ngồi. Theo Phật Quang đại từ điển, Tam thế Phật bao gồm: Phật Di Đà là Phật quá khứ, Phật Thích Ca là Phật hiện tại, Phật Di Lặc là Phật tương lai. Đây là ba pho tượng cổ bằng gỗ mít được chạm trỗ rất tinh tế, tất cả đều sơn nhũ vàng, có niên đại vào thế kỷ thứ XVIII. Ba bức tượng Tam thế Phật trong tư thế thiền định trên tòa sen cao 25cm, tượng Phật cao 65cm.
Tầng thứ hai là bộ tượng Phật Thích Ca ngồi trong tư thế thiền định trên tòa sen. Bên cạnh có thờ hai tượng Ngài A Nan và Ca Diếp, hai vị đại đệ tử của Phật, bằng chất liệu gỗ mít cao 1,1m, được sơn nhũ vàng đứng hai bên trong tư thế hầu cận Đức Phật, hai tượng này có niên đại vào thế kỷ thứ XVIII.
Tầng dưới cùng thờ bộ tượng Di Đà Tam tôn bằng chất liệu xi măng, gồm Phật Di Đà, Bồ Tát Quan Âm và Thế Chí. Đứng hộ trì hai bên bàn thờ này là hai tượng Kim Cang Hộ pháp bằng gỗ mít được chạm trổ khá chi tiết với những đường nét rất mềm mại, tượng cao 135cm, ngang 42cm, dày 6cm đứng trên bệ gỗ. Ngoài ra, tại bàn thờ này còn có những tượng Phật làm bằng đất nung, có niên đại gần 100 năm như: Tượng Phật Thích Ca phóng quang, tượng Bồ Tát Địa Tạng ngồi trên con Đề thính, tượng quan Tài Thủ, tượng Mục Liên tôn giả.
Bên trái từ ngoài nhìn vào là bàn thờ Thánh Mẫu, phía sau trang trí bức hoành phi viết một chữ “賢” (Hiền) nằm chính giữa và hai bên là hai câu đối. Về ý nghĩa, chữ “賢” (Hiền) chỉ cho những người có đức hạnh cao thượng vừa có tài năng có thể giúp ích cho đời, cho nên trên bàn thờ này thờ rất nhiều vị như Tam toà Thánh Mẫu thuộc tín ngưỡng dân gian lâu đời của người Việt được thờ trên cao nhất; kế đến là Ngọc Hoàng Thượng đế và Nam Tào, Bắc Đẩu thuộc tín ngưỡng của Đạo giáo; cuối cùng là tượng bà Chúa Tiên. Theo trình bày của Hòa thượng Chánh Quang, trước đó bàn thờ này chỉ thờ Mẫu, nhưng trong cuộc chiến tranh năm 1968, nhiều bàn thờ bị hư hỏng nên bộ tượng Ngọc Hoàng này được đem vào thờ chung với gian thờ Mẫu.
Bộ tượng Tam toà Thánh Mẫu và tượng bà Chúa Tiên do đích thân Quản đạo Võ Chuẩn đắp bằng đất sét với chiều cao khoảng 65cm. Tượng Mẫu Thượng Thiên chính giữa ngồi trên đám mây, hai tay để trên đầu gối, mặc đồ màu đen, tương truyền bà là người cai quản bầu trời, có quyền năng hô mưa gọi gió. Bên trái là Mẫu Thượng Ngàn ngồi trên khúc gỗ trong tư thế gác chéo chân, tay phải để trên bệ ngồi bằng gỗ, tay trái để trên đùi, đi chân trần, mặc áo màu vàng, bà là người cai quản miền rừng núi. Tượng bên phải là Mẫu Thoải chuyên cai quản vùng sông nước, tượng mặc đồ màu đỏ, tay phải để trên đùi, tay trái đặt trên lưng cá chép.
Đặt biệt, Tượng bà Chúa Tiên được thờ tại chùa Bác Ái với tư thế ngồi trên ghế, hai tay để trên đùi, mặc đồ màu xanh. Bà vốn là công chúa Ngọc Hân đời Hậu Lê, tên thật là Lê Ngọc Hân, sinh năm 1770 mất năm 1799, vợ của vua Quang Trung.
Tượng Ngọc Hoàng mặc đồ màu đỏ, hai tay cầm ngọc ấn. Tượng Nam Tào tay trái cầm sớ, tay phải để trên đùi, mặc đồ màu xanh. Tượng Bắc Đẩu tay trái cầm ấn, tay phải để trên đùi, mặc áo màu xanh dương. Ba tượng này đều trong tư thế ngồi trên ghế có tựa lưng, được làm bằng gỗ với chiều cao 72cm, có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ XVIII. Ngoài ra, trên bàn thờ này còn có hai bài vị bằng gỗ trắc, cao 30cm, dày 3,5cm, ngang 7,5cm, bên trên có khắc chữ Hán. Bài vị thứ nhất là của Vân Nương Thánh Mẫu có nội dung: “雲鄉正一位聖母加贈上上等最靈尊神之位” (Vân Hương chánh nhứt vị Thánh Mẫu gia tặng thượng thượng đẳng tối linh tôn thần chi vị). Bài vị thứ hai là của Thiên Y A Na Thánh Mẫu có nội dung: “天依阿那上等神之位” (Thiên Y A Na thượng đẳng thần chi vị).
Đối diện với bàn thờ Mẫu là bàn thờ Thánh, phía sau án thờ có treo bức hoành phi viết một chữ “聖” (Thánh). Về ý nghĩa, chữ này chỉ cho các vị vua tài đức hoặc những người có nhân cách cao thượng. Trên bàn này, thờ đức Thánh Trần Hưng Đạo và Quan Công, đây là hai nhân vật lịch sử của Việt Nam và Trung Hoa được mọi người kính trọng và phong “Thánh”. Đức Thánh Trần quê ở làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, tên thật là Trần Quốc Tuấn sinh năm 1228, mất năm 1300, thọ 73 tuổi, là con của An Sinh Vương Trần Liễu. Ông từng ba lần đánh bại quân Nguyên Mông, được thế giới công nhận là một trong mười vị tướng tài bậc nhất thế giới do Hội đồng khoa học Hoàng gia Anh xét phong vào tháng 02 năm 1984. Được phong tước Hưng Đạo đại vương và phong ấp ở Vạn Kiếp, người dân vì cảm mến tài đức của ông nên đã lập đền thờ ngay khi ông còn sống.
Trên cùng của bàn thờ Thánh, thờ tượng Quan Công cao 67cm với gương mặt đỏ như son, râu năm chòm, mặc đồ màu xanh, ngồi trên ghế tay trái vuốt râu, tay phải để trên đùi. Đứng bên trái là Quan Bình tay cầm hộp ấn, bên phải là Châu Xương tay cầm thanh long đao, hai tượng này cao 87cm, phía dưới cạnh bàn thờ này còn có con ngựa xích thố của Quan Công cao 1m được đặt trên bệ gỗ. Tầng dưới là tượng Hưng Đạo Đại vương trong tư thế ngồi, tay trái để trên ghế, tay phải để trên đùi, mặc đồ màu đỏ, tượng cao 50cm. Những tượng này đều được làm bằng đất nung.
Bên dưới điện trung có tổng cộng bảy bàn thờ, trong đó có năm bàn thờ quay mặt ra phía trước chánh điện theo hướng Nam và hai bàn thờ để dọc hai bên chánh điện. Ba bàn thờ chính giữa tôn thờ ba vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền và Chuẩn Đề, đây là những tượng được làm bằng xi măng. Bàn thờ trong cùng bên trái thờ chư vị tổ sư, ngoài thờ Đạt Ma Tổ sư còn thờ Hòa thượng Hoằng Thạc, Hòa thượng Trí Hưng, Hòa thượng An Chánh. Phía trước còn có một bài vị của Hòa thượng An Chánh với nội dung: “臨濟正宗四十一世祖庭博愛寺住持開山華嚴法花佛光三寺諱如榮字解錄號安正謁魔和尚蓮坐”. Phiên âm: “Lâm Tế chánh tông tứ thập nhứt thế, Tổ đình Bác Ái Tự Trụ trì, khai sơn Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Phật Quang tam tự, huý Như Vinh, tự Giải Lộc, hiệu An Chánh Yết Ma Hòa thượng liên tọa”. Hai bàn thờ Tiêu Diện và Hộ pháp nằm đối diện nhau, mặt quay vào chánh điện, nằm sát vị trí cửa ra vào. Riêng tượng Hộ pháp này cũng được tạc bằng gỗ có niên đại khoảng thế kỷ XVIII, với nhiều chi tiết rất tinh xảo, chiều cao 1,35m, ngang 45cm, dày 6cm.
Trong cùng bên phải là bàn thờ chư hương linh, trên bàn thờ này ngoài những tấm bản rất lớn ghi tên chư hương linh bằng chữ Hán còn có khoảng vài chục bài vị bằng gỗ có niên đại khoảng vài chục năm, nổi bật là bài vị của hai vợ chồng Quản đạo Võ Chuẩn với nội dung: “奉為開建博愛寺禮部尚書武準之先靈往生於丙申年十月二十三日,尊女氏歷法名真承往生於丁酉年十二月二十日之靈位” (Phụng vì khai kiến Bác Ái Tự, Lễ bộ Thượng thư Võ Chuẩn chi tiên linh, vãng sanh ư Bính Thân niên thập nguyệt nhị thập tam nhựt. Tôn Nữ Thị Lịch pháp danh Chơn Thừa vãng sanh ư Đinh Dậu niên thập nhị nguyệt nhị thập nhựt chi linh vị). Trên bàn thờ này cũng còn lưu giữ lại một lá sớ được viết bằng chữ Hán trong hội Vu lan năm 1953 dài 12m trên giấy xuyến chỉ màu trắng, trong nội dung có đóng nhiều dấu đỏ theo ý nghĩa của Phật giáo, phiên âm nguyên văn như sau:
“Tư minh siêu độ. Vi điệp tiến sự. Kim tư, Việt Nam quốc, Kon Tum tỉnh, Sắc Tứ Bác Ái Tự trú phụng Phật thượng hương hiến cúng phúng kinh, trung nguyên phổ độ phụng hiến Lan Bồn tiếp tế chư linh, kỳ siêu báo hiếu sự. Kim bổn tự cập thập phương bổn đạo thiện nam tín nữ đại tiểu đẳng, cẩn dĩ kim ngân trai bàn thứ phẩm chi nghi cung tiến vu (…tên chư hương linh). Thiết niệm mộc tùng căn trưởng, thủy tự nguyên lưu, tưởng tổ đức dĩ sanh thành cố thận chung nhi truy viễn. Tư giả, thời phùng mạnh nguyệt, tiết thuộc thu thiên, nãi địa quan sá tội chi kỳ, y Mục Liên độ thân chi nhựt, do thị kiền trượng thiền lưu tuyên dương pháp sự. Phúng tụng, Đại Thừa Phật thuyết tôn kinh, dĩ thử lương nhơn kỳ linh siêu độ. Kim tắc triệu thỉnh chư hương linh lai phó tự đường thính pháp văn kinh y vị nhi tọa. Duy nguyện thừa tư thiện lợi, tảo đắc vãng sanh cửu phẩm diệu liên Di Đà thọ ký, tu chí điệp giả, hữu điệp tiến. Phụng vì chư tiên linh án tiền chiếu giám. Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Giáo chủ đại từ đại bi tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật liên tòa chứng minh. Chuẩn thử, Phật lịch nhị thiên tứ bách linh cửu thập thất niên, tuế thứ Quý Tỵ niên thất nguyệt thập ngũ nhật thời điệp tiến. Phụng trí tại, Tổ đình Bác Ái Tự, Vu lan hội dĩ vi gia phổ vĩnh đại thường trú phụng tự.”
Bên trong tiền đường khi mới thành lập chùa thì không lập bàn thờ, mà chỉ là một đại sảnh trong những buổi lễ lớn sẽ tận dụng làm lễ đài, vì trước đó chùa chưa tạo dựng những tượng đài Tam thế Phật lộ thiên nên tiền đường này như một lễ đài trên cao nhìn xuống phần sân chùa với chiều cao gần 1m so với sân chánh điện. Tuy nhiên, sau khi cổng Tam quan bị hư năm 1968 mới thỉnh hai vị Kim Cang, Hộ pháp từ ngoài đó vào bài trí sát tường để thờ cúng, mặt quay vào bên trong như hai vị thần giữ cửa, hai tượng này cũng được làm bằng đất nung, do chính tay Quản đạo Võ Chuẩn tạo, một vị tay cầm kiếm với vẻ mặt rất hiền từ, một vị tay cầm cây rìu dài trong rất dữ tợn, tượng cao 2,8m.
Phía bên ngoài sân trước chánh điện, ngoài hai dinh thờ Thành hoàng bổn xứ được tạo lập khi mới xây chùa, vào năm 1989, Hòa thượng Thích Chánh Quan đã xây dựng thêm tượng Phật Di Đà và Bồ Tát Quan Âm, Thế Chí lộ thiên ở khu vực chính giữa sân để tạo thêm sự trang nghiêm trong khuôn viên chùa, những tượng này được làm bằng xi măng, chiều cao hai tượng Bồ Tát là 2,5m, tượng Phật Di Đà nằm chính giữa sân cao 3m.
Ngoài ra, chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ có niên đại vài trăm năm như:
+ Một pho tượng Bồ Tát Quan Âm bằng gốm men rạng Nhật Bản, thường gọi là tượng Quan Âm trì kinh, có niên đại khoảng thế kỷ thứ XVI, tượng chỉ cao tầm 60cm nhưng là cả một công trình nghệ thuật, đến từng chi tiết nhỏ cũng được chạm khắc rất tinh tế. Tượng đứng trên bệ bằng gỗ hình vuông cao 15cm không có tòa sen, chân đi trần, tay trái cầm quyển kinh, tay phải để trước bụng trong tư thế như đang với tay xuống cứu vớt chúng sanh đang chìm đắm trong đau khổ, sau lưng áo khắc hình chim phụng xòe cánh rất đẹp, xung quanh còn có những họa tiếthình bông hoa theo kiểu văn hóa Nhật Bản rất độc đáo, trên đầu đội khăn choàng 2 lớp, búi tóc phía trên trán có trang trí tượng Phật trong tư thế thiền định.
+ Một tượng Phật Di Lặc bằng đồng có niên đại khoảng thế kỷ XVIII, tượng cao 35cm, pho tượng này được cho là bằng đồng đen, vì dùng lửa đốt 15 phút vẫn không làm pho tượng nóng lên, nên được rất nhiều khách thập phương đến tham quan. Tuy nhiên, năm 1994, đã bị trộm cắp đem về Đà Nẵng, đến năm 2014, sau 20 năm, chính kẻ trộm đã đem trả lại pho tượng cho chùa.
+ Một pho tượng Bồ Tát Quan Âm bằng gỗ trong tư thế ngồi thiền định trên tòa sen, có niên đại vào khoảng thế kỷ XVIII. Tượng cao 80cm được thếp nhũ vàng, tay trái để úp trên đùi, tay phải để ngửa trên đùi, ngón tay cái và ngón trỏ dũi thẳng, ba ngón tay còn lại co vào lòng bàn tay. Bên cạnh đó, chùa còn lưu giữ nhiều tượng Phật và Bồ Tát do chính tay Quản đạo Võ Chuẩn tạo bằng đất nung, tuy về mặt mỹ thuật không được đẹp như những tượng được chế tác sau này, nhưng đó là một kỹ thuật cổ xưa của người Việt, đánh dấu một chặng đường lịch sử của dân tộc Việt Nam. [Phụ lục 22]
Tóm lại, ngôi cổ tự Bác Ái, với niên đại gần trăm năm cùng với sự ủng hộ của vua quan, bổn đạo, tín đồ Phật tử đã làm cho ngôi chùa ngày một khang trang. Các hệ thống tượng thờ đa dạng và phong phú đã làm nổi bật lên được giá trị văn hóa của Phật giáo, góp phần phong phú nền văn hóa của vùng đất Phật giáo Tây Nguyên này.
Chùa còn lưu giữ rất nhiều hoành phi và liễn đối, có những câu đối được khắc vào trong những cột gỗ có từ thời mới lập chùa không rõ tác giả. Một bức hoành phi được cho là do vua Bảo Đại ban tặng năm 1933, một cặp liễn đối do Quản đạo Võ Chuẩn tặng năm 1938, một cặp liễn đối do Quản đạo Hà Ngại tặng năm 1945, đó là những liễn đối xưa nhất của chùa.
Năm 1950, sau khi chính thức Trụ trì chùa Bác Ái, Hòa thượng An Chánh đã làm rất nhiều bức hoành phi và liễn đối treo trong chùa vào năm Bính Ngọ (1966) và khắc trên cổng Tam quan năm 1970 mô phỏng theo nét chữ của Ngài. [Phụ lục 23]
3.1 Liễn đối được tạo khi lập chùa năm 1933
Những câu đối này được chạm lên sáu cây cột gỗ phía trước cửa chánh điện gồm: bốn câu đối chính giữa được khắc chìm vào trong cột gỗ, hai câu đối ngoài cùng được chạm nổi lên cột gỗ. Tất cả đều được sơn đỏ, chữ thì được sơn màu vàng nhằm tạo sự nổi bật trên những cây cột, cột có đường kính 35cm, cao 3,5m.
+ Cặp đối thứ nhất
Nguyên bản:
崑嵩勝景大南一統已來.
博愛名藍寶大八年伊始.
Phiên âm:
Kon Tum thắng cảnh Đại Nam nhất thống dĩ lai.
Bác Ái danh lam Bảo Đại bát niên y thỷ.
Dịch nghĩa:
Thắng cảnh Kon Tum, nước Đại Nam thống nhất đến muôn đời.
Danh lam Bác Ái, năm Bảo Đại thứ tám mới xây dựng.
Thắng cảnh Kon Tum cũng tồn tại đến muôn đời như nước Đại Nam vậy, còn ngôi danh lam Bác Ái vào năm Bảo Đại thứ tám mới bắt đầu được xây dựng. Câu đầu tiên nói lên sự thống nhất tồn tại muôn đời của nước ta, câu thứ hai nói về thời gian chùa được thành lập, một câu ca ngợi quê hương, một câu giới thiệu danh thắng của quê hương.
+ Cặp đối thứ hai
Nguyên bản:
大德億萬斯年.
之西初顯箇寺.
Phiên âm:
Đại đức ức vạn tư niên.
Chi Tây sơ hiển cá Tự.
Dịch nghĩa:
Nhờ ân đức lớn sâu dày.
Phía Tây này mới có một ngôi chùa.
Chính nhờ đức lớn của Đức Phật trải qua thời gian lâu xa như vậy nên phía Tây dãy núi Trường Sơn này mới có được một ngôi chùa. Hai câu này ca ngợi Đức Phật chính nhờ sự giáo hóa của Ngài mà đến ngày nay trên mảnh đất Kon Tum lại có được một ngôi chùa mới, là chùa đầu tiên trên vùng Tây Nguyên.
+ Cặp đối thứ ba
Nguyên bản:
功園萬德位証一乘之天中天上無二上.
橫遍十方豎窮三際成佛頂佛尊唯獨尊.
Phiên âm:
Công viên vạn đức vị chứng nhứt thừa chi thiên trung thiên thượng vô nhị thượng.
Hoành biến thập phương thụ cùng tam tế thành Phật đảnh Phật tôn duy độc tôn.
Dịch nghĩa:
Công đức tròn đầy chứng quả nhứt thừa trong ngoài tam giới không ai hơn.
Rộng khắp mười phương ngang cùng ba cõi chỉ có Phật là duy nhất tôn quý nhất.
Hai câu này chỉ dành riêng để ca ngợi Đức Phật, với công hạnh viên mãn Ngài đã chứng quả vị nhứt thừa, thành đấng lưỡng túc tôn Chánh đẳng Chánh giác, quả vị cao tột không ai trong ba cõi này có thể so bì với Ngài được.
3.2 Bức hoành phi “敕賜博愛寺” năm 1933.
Nguyên bản:
敕賜博愛寺.
Lạc khoảng:
寶大捌年捨月初參日.
新安縣之縣梨皇河, 承派阮大同, 范伯拜供.
Phiên âm:
Sắc Tứ Bác Ái Tự.
Tân An huyện chi huyện Lê Hoàng Hà, Thừa phái Nguyễn Đại Đồng, Phạm Bá bái cúng.
Bức hoành phi này theo ghi chép trong tạp chí Viên Âm xuất bản năm 1934 do vua Bảo Đại Sắc tặng vào ngày 03 tháng 10 thuộc năm Bảo Đại thứ 8 (1933), đối chiếu hai mốc thời gian thì hoàn toàn trùng khớp. Tuy nhiên, theo phần lạc khoảng trên hoành phi thì lại ghi chép là do Tri huyện Tân An tên là Lê Hoàng Hà, Thừa phái Nguyễn Đại Đồng và một số người khác nữa dâng cúng. Cho nên, chúng tôi cho rằng có hai vấn đề xảy ra, thứ nhất có thể đây là bản nhắc lại tên chùa được Sắc tặng do những người có tên trên bảng dâng cúng vào năm 1933. Bởi nếu bức hoành phi này do vua tặng thì phần lạc khoảng phải ghi tên vua Bảo Đại, sao lại ghi tên những người khác dâng cúng; thứ hai là vua ra lệnh ban Sắc tặng nhưng giao cho những người này đại diện vua thi công bức hoành phi và dâng cúng nên mới đề tên của mình vào. Ngoài ra, trên phần lạc khoảng còn có những chữ đã bị mờ không thể đọc được, làm cho quá trình phân tích tư liệu có phần bị hạn chế.
Hoành phi được làm bằng gỗ, sơn son thếp vàng, kích thước chiều ngang 1,5m, cao 65cm. Bên trên bốn viền hình chữ nhật được chạm trổ nổi với biểu tượng tứ linh long lân quy phụng, viền trên cùng là hai con rồng chầu nhật, hai viền hai bên là một cặp phụng kẹp chiếp thư và cây bút, viền dưới cùng có hai con lân chầu ngọc và một cặp kim quy kẹp chiếu thư và cây bút. Bức hoành phi này hiện nay được treo chính giữa cửa chánh điện mặt quay ra tiền đường.
3.3 Cặp liễn đối do Quản đạo Võ Chuẩn tặng năm 1938
Nguyên bản:
志存一統佐照(興)朝伏魔蕩寇威靈丕振祗(始)完當日精忠.
數定三分扶漢(炎)室勤(討)吳伐魏辛苦備嘗未了(半)生平事業.
Lạc khoảng:
寶大十三年冬.
弟子武準 奉供.
Phiên âm:
Chí tồn nhứt thống, tá chiếu triều, phục ma đãng ngụy, uy linh phi chấn, chỉ hoàn đương nhựt tinh trung.
Số định tam phân, trượng Hán thất, thảo Ngô phạt Ngụy, tân khổ bị thưởng, vị liễu sanh bình sự nghiệp.
Bảo Đại thập tam niên Đông.
Đệ tử Võ Chuẩn phụng cúng.
Đây là hai câu đối được khắc trên tấm gỗ trắc dài 1,96m, ngang 19,5cm phần chữ Hán thếp vàng, được Võ Chuẩn tặng cho chùa vào năm Bảo Đại thứ 13. Về nguồn gốc hai câu đối này vốn được Đề đốc Dương Đình Lý viết tặng Tự điển Võ Miếu ở tỉnh Đài Nam nhân chuyến đi tuần Đài Loan vào năm Càn Long thứ 59, chính giữa có bức hoành phi có ba chữ “大丈夫” (Đại trượng phu), hai bên treo hai câu đối nguyên văn như sau: “志存一統佐興朝伏魔蕩寇威靈丕振始完當日精忠. 數定三分扶炎漢討吳伐魏辛苦備嘗未了半生事業” (Chí tồn nhứt thống, tá hưng triều, phục ma đãng ngụy, uy linh phi chấn, thủy hoàn đương nhựt tinh trung. Số định tam phân, trượng Viêm Hán, thảo Ngô phạt Ngụy, tân khổ bị thưởng, vị liễu bán sanh sự nghiệp). Nếu so sánh hai câu này với hai câu đối của Quản đạo Võ Chuẩn thì có những từ không đúng với bản gốc, chúng tôi đã sửa lại và để trong ngoặc kép. Về nội dung hai câu đối này nhằm ca ngợi chí đại trượng phu của Quan Công, một người đầy trung nghĩa đánh Ngô, phạt Ngụy để bảo vệ Hán thất, nhưng chỉ tiếc sự nghiệp chưa thành mà người đã thành thiên cổ.
3.4 Câu đối do Quản đạo Hà Ngại tặng năm 1945
Nguyên bản:
篤信蠻貊行漫道仙龍居則化.
福美宮牆在幾經泰漢仰彌高.
Lạc khoảng:
寶大二十年夏.
領崑嵩道長何艾 奉供.
Phiên âm:
Đốc tín man mạch hành mạn đạo tiên long cư tắc hóa.
Phú mỹ cung cường tại cơ kinh thái Hán ngưỡng di cao.
Bảo Đại nhị thập niên hạ.
Lĩnh Kon Tum đạo trưởng Hà Ngại phụng cúng.
Đây là câu đối của vị Quản đạo cuối cùng của triều đình Phong kiến Việt Nam làm quan tại Kon Tum. Năm 1945, sau khi Cách mạng thành công, ông đã trao trả quyền điều hành lại cho chính quyền Cách mạng và trở về Huế. Câu đối được viết năm 1945 trên tấm gỗ dài 2m, bề ngang 20cm, được sơn son thếp vàng, xung quanh được chạm trổ nhiều hoa văn rất tinh tế, liễn đối này được treo trước bàn thờ tổ. Hai câu đối này sử dụng nhiều điển tích để diễn tả tâm trạng của ông trước thời cuộc, vận mệnh của đất nước.
3.5 Những bức hoành phi và liễn đối do Hòa thượng An Chánh viết năm 1966 và năm 1970
Những liễn đối và hoành phi này được viết bằng chữ Hán, chạm nổi trên những trụ xi măng trước cổng, hay viết trên những tấm kim loại treo trong chánh điện, tiền đường. Tất cả đều được sơn son thếp vàng, có viền bao hình chữ nhật chạy xung quanh kèm theo hoa văn, phần trên viền bao đều có hình dơi treo ngược, đây là biểu tượng của chữ phước. Có những câu đối được cách điệu ở mỗi chữ là một bông sen màu đỏ, đặc biệt nét chữ bên trên là bút tích của Hòa thượng An Chánh với đường nét rất mềm mại. Nội dung tương đối phong phú về nhiều chủ đề, như những bức hoành phi ca ngợi công đức của Phật “Tam Giới Đạo Sư”, “Tứ Sanh Từ Phụ”, hay ca ngợi công đức của chư vị tổ sư “Tổ Ấn Trùng Quang”; hay là cầu nguyện cho thế giới hòa bình “Phong Điều Vũ Thuận”, “Quốc Thái Dân An”.
Bên cạnh hoành phi là những liễn đối dùng từ Kon Tum và Bác Ái ở mỗi đầu câu để ca ngợi ngôi chùa và danh thắng Kon Tum hay ca ngợi ân đức của Đức Phật… Do khuôn khổ của một luận văn cao học, chúng tôi không thể mô tả hết, dưới đây luận văn sẽ trình bày những cặp liễn đối tiêu biểu nhất, những hoành phi liễn đối còn lại xin xem trong phần phụ lục.
+ Liễn đối giữa điện thượng
Nguyên bản:
金身寶座實為三界之導師.
玉體尊嚴永作四生之慈父.
Phiên âm:
Kim thân bảo tọa thực vi tam giới chi đạo sư.
Ngọc thể tôn nghiêm vĩnh tác tứ sanh chi từ phụ.
Dịch nghĩa:
Thân Phật sắc vàng trên bảo tọa thực là thầy dẫn đường của ba cõi.
Ngọc thể tôn nghiêm luôn luôn là cha lành của chúng sanh.
Hai câu đối này tôn xưng Đức Phật như người thầy dẫn đường chúng sanh trong trong ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Ngài còn là người cha hiền hòa luôn quan tâm lo lắng cho chúng sanh. Phật là người chỉ đường chúng sanh thoát khỏi sự sợ hãi và bất hạnh, chỉ con đường đưa đến hạnh phúc đích thực, nơi không còn khổ đau, đó chính là cảnh giới Niết bàn.
+ Liễn đối giữa điện trung
Nguyên bản:
博愛如來應跡.
祖庭佛現金身.
Phiên âm:
Bác Ái Như Lai ứng tích.
Tổ đình Phật hiện kim thân.
Dịch nghĩa:
Chùa Bác Ái Như Lai ứng hiện dấu tích.
Chốn Tổ đình Phật hiển hiện kim thân.
Hai câu đối này thể hiện được đây là ngôi chùa được Phật chỉ điểm xây dựng, bởi ở đây có sự xuất hiện của Ngài, Ngài đã linh ứng thị hiện tại đây, để tạo cho mọi người có thêm niềm tin với Tam bảo và hộ trì Phật pháp.
+ Liễn đối trên cổng Tam quan
Nguyên bản:
崑嵩開寶藏讚揚慈父不思議.
博愛雨陀囉稱頌世尊無量壽.
Phiên âm:
Kon Tum khai Bảo tạng tán dương từ phụ bất tư nghì.
Bác Ái Vũ đà la xưng tụng thế tôn vô lượng thọ.
Dịch nghĩa:
Phật giáo có mặt trên Kon Tum là nhờ công đức không kể hết của đấng cha lành.
Chùa Bác Ái là nơi lưu giữ và đọc tụng kinh điển làm cho Chánh pháp của Phật luôn trường tồn.
Câu đầu tiên nói lên công đức của Phật là bất khả tư nghì không thể kể được. Câu thứ hai thể hiện được vai trò của chùa Bác Ái trong việc duy trì và phát triển Phật giáo trên vùng Tây Nguyên, luôn làm cho Phật pháp được trường tồn.
Nhìn chung, những câu đối tại chùa Bác Ái là những tinh hoa của các vị tổ sư truyền thừa, được các thế hệ nối tiếp lưu giữ. Những câu đối này được xem như là kim chỉ Nam trên con đường tu học và hoằng pháp lợi sinh. Ngoài những câu đối của các vị tổ sư truyền thừa, chùa Bác Ái còn lưu giữ hai cặp liễn đối của hai vị Quản đạo đương thời hiến cúng. Bên cạnh đó, chùa còn lưu giữ một bức hoành phi do vua Bảo Đại hiến cúng, điều này đã nói lên tầm vóc và sự ảnh hưởng to lớn của ngôi chùa đối với tín đồ Phật tử tại vùng đất này.
Hiện tại chùa Bác Ái còn lưu giữ rất nhiều mộc bản, được làm trên những tấm gỗ quý, có niên đại gần 100 năm từ thời chùa mới thành lập, gồm mộc bản chữ Hán dùng để in chứng nhận thọ trì Tam quy Ngũ giớivà Sa di thế độ thập giới. Mộc bản Hán Việt của bản kinh Tịnh độ và cuối cùng là những mộc bản dùng làm phương tiện để giải quyết vấn đề tín ngưỡng dân gian của đồng bào Phật tử.
Từ những tư liệu trên những mộc bản này có thể xác định được chùa từ khi mới hình thành từ đời Trụ trì đầu tiên đến nay đều thuộc dòng truyền thừa Lâm Tế Chúc Thánh và có nhiều hoạt động mang tính tâm linh, dấn thân phụng sự xã hội của chùa.[Phụ lục 24]
Mộc bản Sa di thế độ thập giới câu đầu tiên khắc là “臨濟正宗祝聖法派” (Lâm Tế Chánh Tông Chúc Thánh pháp phái), đời truyền thừa là tứ thập nhị thế, cuối bản khắc dòng chữ “崑嵩上圻開山敕賜博愛寺”(Kon Tum thượng kỳ khai sơn Sắc Tứ Bác Ái Tự), từ thông tin trên, chắc chắn tấm bản này là của Ngài Từ Vân dùng để in phái Sa di thế độ. Vì Ngài pháp danh là Thị Niệm thuộc đời thứ 42, và Ngài thường ngộ nhận là người khai sơn ra chùa Bác Ái. Như vậy mộc bản này được khắc từ thời của Ngài Tăng Cang Lê Tế làm Trụ trì, có niên đại khoảng 90 năm. Nguyên văn mộc bản này phiên âm ra Hán Việt như sau:
“Lâm Tế Chánh Tông Chúc Thánh Pháp phái. Chúc Thánh Tự, từ tổ khai sơn huý thượng Minh hạ Hải hiệu Đắc Trí Pháp Thiệt Hòa thượng tục kệ. ‘Minh thiệt pháp toàn chương, ấn chơn như thị đồng, chúc thánh thọ thiên cửu, kỳ quốc tộ địa trường. Đắc chánh luật vi tôn, tổ đạo giải hạnh thông, giác hoa bồ đề thọ, khắc mãn nhơn thiên trung’. Tuế xuất gia học đạo kinh nghiệp dĩ thành chí, tuế quy đầu. Sắc Tứ Bác Ái Tự thủ lễ bổn sư từ Lâm Tế Chánh Tông tứ thập nhị thế huý thượng… hạ… hiệu…, minh cảnh vi sư. Truyền thọ Sa di thế độ pháp. Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Thực kim, thế chi thiện căn thọ lai sanh chi từ quả, thế trừ tu phát, thọ giả ca sa, ký tham Tam bảo chi tôn, đương thọ sa di thập giới, sở vị sát đạo dâm vọng ẩm tửu, tất sức hý duyệt sàng thắng nhứt thực, kim bảo tham tích. Nhứt nhứt bất đắc vi phạm, kiền tích giới định tuệ, tập học kinh luật luận, đoạn tập tham sân si đẳng thập ác sanh thí nhẫn huệ đẳng chúng. Thiện khai bát nhã hữu tâm ngộ bổn lai Phật tánh đăng tấn thượng thừa thọ. Phật chế giới phương thú Như Lai địa hỷ tu chí điệp giả. Hữu điệp cấp đệ tử pháp danh… tự… phụng trì. Tuế thứ… niên… nguyệt… nhựt. Kon Tum thượng kỳ khai sơn Sắc Tứ Bác Ái Tự pháp hiệu… tàng bản.”
Mộc bản Tam quy Ngũ giớicâu đầu tiên khắc là “臨濟正宗” (Lâm Tế Chánh Tông), đời truyền thừa là tứ thập nhứt thế, cuối bản khắc dòng chữ “敕賜博愛寺. 本師傳授” (Sắc Tứ Bác Ái Tự. Bổn sư truyền thọ). Theo bài kệ truyền thừa được khắc trên tấm bản là “明實法全彰, 印真如是同, 祝聖壽天久, 祈國祚地長.” (Minh Thiệt Pháp Toàn Chương, Ấn Chơn Như Thị Đồng, Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu, Kỳ Quốc Tộ Địa Trường). Theo thông tin truyền thừa đời thứ 41 thì chắc chắn tấm bản này là của Hòa thượng An Chánh sử dụng để in phái quy y, vì trong tất cả các đời Trụ trì chỉ có Ngài là đời thứ 41 Lâm Tế Chúc Thánh. Như vậy, mộc bản này được khắc từ thời của Hòa thượng An Chánh làm Trụ trì, có niên đại khoảng 70 năm. Nguyên văn mộc bản này phiên âm ra Hán Việt như sau:
“Lâm Tế Chánh Tông. Chúc Thánh tự Đắc Trí lão tổ thọ Tam quy Ngũ giới pháp phái lưu thông kệ vân: ²Minh thiệt pháp toàn chương, ấn chơn như thị đồng, chúc thánh thọ thiên cửu, kỳ quốc tộ địa trường². Truyền Lâm Tế chánh tông tứ thập nhứt, bổn sư thọ. Tam quy Ngũ giới thuyết. Quy y Phật lưỡng túc tôn, Quy y Pháp ly dục tôn, Quy y Tăng chúng trung tôn. Phù nhơn cư tam giới, tổng lại ngũ thường. Ngũ thường bất bị bất túc, vi nhơn ký quy Tam bảo đương tận ngũ giới, ngũ giới bất trì nhân thiên, lộ tiệt ngũ giới giả, sở vị nhân bất sát sanh, tắc nhơn chi đại. Nghĩa bất thâu đạo, tắc nghĩa chi liêm. Lễ bất tà dâm, tắc lễ chi chánh. Tín bất vọng ngữ, tắc tín chi chí. Trí bất ẩm tửu, tắc trí chi minh. Đãn tận ngũ thường chi giới, bất đọa tam đồ. Tiên thánh lợi sanh chi bổn mạc, xuất ư tư tu chí điệp giả. Hữu điệp thọ đệ tử thọ ưu bà… giới. Pháp danh… hộ trì. Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành. Tuế thứ… niên… nguyệt… nhựt. Sắc Tứ Bác Ái Tự bổn sư truyền thọ.”
Về hình thức, hai mộc bản này trang trí hoàn toàn giống nhau, kích thước cũng tương đồng nhau. Bên trên và bên dưới khung viền chạm trổ lưỡng long chầu nhật, hai bên khung sườn là hai con rồng chầu, tổng cộng mỗi tấm mộc bản có sáu con rồng chầu.
Mộc bản kinh Tịnh độ, đây là bản kinh trì tụng hằng ngày tại chùa vào thời kinh tối. Mộc bản được khắc theo kiểu lưỡng tự Hán Việt, chính giữa mỗi bản kinh là số trang và khắc tên tiêu đề kinh là “淨土門” (Tịnh Độ Môn), mộc bản gồm 13 tấm nhưng hiện tại đã thất lạc tấm số một và hai. Theo khảo sát từ trang số 3 đến trang số 13 thì nghi thức trì tụng lúc đó là Đại Bi chú, tán Phật, niệm Phật, tụng sám Quy Mạng, hồi hướng, tự quy y. Tấm số 13 có khắc tượng Ngài Hộ pháp Vi Đà Thiên Tướng, bên cạnh đó còn khắc thêm một số thông tin về tác giả của mộc bản. Nội dung là do Ngài Tăng Cang hiệu Từ Vân Trụ trì chùa Sắc Tứ Bác Ái tỉnh Kon Tum biên soạn, Nguyễn Dung pháp danh Chúc Thành làm giám đốc điều hành việc khắc bản in, người khắc mộc bản là Lê Quý Đoàn quê quán huyện Hà Đình tỉnh Thừa Thiên, dưới sự cho phép của quan Thất phẩm Lê Đức Nhưng, khi mộc bản hoàn thành được phép ấn tống lưu thông 500 quyển. Như vậy, mộc bản này cũng được khắc từ thời của Ngài Tăng Cang Lê Tế làm Trụ trì, có niên đại cách đây khoảng 90 năm.
Ngoài ra, còn những mộc bản được khắc theo những tín ngưỡng dân gian, để đáp ứng nhu cầu tâm linh của mọi người như những việc tang chế, ma chay, trừ hung vận… Những tấm bản này không đề tên tác giả, đều dùng chữ Hán, bên trên đó có nhiều họa tiếtrất kỳ bí, nhìn rất khó hiểu, những tấm bản này lúc trước dùng mực đỏ để in. Những mộc bản này có kích thước chiều ngang khoảng 40cm đến 50cm, chiều dài từ 100cm đến 150cm, độ dày 30cm. Nội dung trên những mộc bản này là những câu chú, danh hiệu chư Phật và Bồ Tát, những câu giải trừ ngày tháng năm hung hạn, giải trừ trùng tang… Qua đó có thể thấy, quá trình hoạt động tích cực của chùa trong việc dùng những phương tiện của Phật pháp để giải quyết những niềm tin và tín ngưỡng dân gian của người dân, nhằm giúp mọi người tránh bị những phần tử xấu lợi dụng để trục lợi rồi mới dần dần đưa họ quay về với Chánh pháp.
Như vậy, khi thành lập chùa từ năm 1933 đến nay, chùa Bác Ái đã trải qua bốn đời Trụ trì, đều thuộc dòng kệ Lâm Tế Chúc Thánh. Chùa mang phong cách kiến trúc Huế, theo kiểu nhà xuyên trính ba gian hai chái, chùa xây dựng theo hình chữ Môn “門”. Tuy nhiên, trước sự biến động của thời cuộc, do chiến tranh tàn phá và sự bào mòn của thời gian, nên đến đời Hòa thượng An Chánh làm Trụ trì, Ngài đã nhiều lần tu sửa chánh điện và xây mới cổng Tam quan năm 1970. Năm 2000, dưới thời Hòa thượng Chánh Quang làm Trụ trì Ngài đã xây lại hai dãy Đông lang và Tây lang, điều đáng trân trọng là vẫn giữ nguyên vẹn lối kiến trúc cũ.
Hiện nay, chùa Bác Ái còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ, pháp khí có giá trị lịch sử vài trăm năm do vua Bảo Đại ban tặng. Ngoài ra, còn có nhiều bức hoành phi và liễn đối của những nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn đương thời hiến cúng. Ngoài thờ Phật, chùa còn thờ nhiều tín ngưỡng dân gian, điều này cho thấy trong ngôi chùa này có biểu hiện của sự hỗn dung trong tín ngưỡng tạo sự đa dạng và phong phú trong đời sống tâm linh của người dân tại vùng đất Kon Tum này.
This document you requested has moved temporarily.
It's now at http://themes.suckhoevatreem.vn/.