Ngày đăng: 10:10 PM 03/07/2024 - Lượt xem: 473
Thứ nhất, là ý nghĩa trên văn tự. “Trụ” là ở, cư trú. “trì” là giữ gìn, như vậy Trụ trì là người luôn ở trong Chánh pháp và gìn giữ làm cho Chánh pháp của Như Lai luôn được trường tồn; “Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng” với ý nghĩa này thì mỗi tu sĩ đều đang Trụ trì, đang giữ gìn Chánh pháp của Phật. Theo Phật Quang đại từ điển, thuật ngữ “Trụ trì” được sử dụng rộng rãi tại Trung Hoa bắt đầu từ đời Tống trong các Thiền Lâm, tức là những ngôi chùa lớn hay còn gọi là cổ tự.
Thứ hai, là ý nghĩa về mặt pháp lý, là tu sĩ Phật giáo, đã thọ Tỳ kheo giới, là người điều hành trực tiếp, đại diện hợp pháp và chịu mọi trách nhiệm về mặt Pháp luật trước chính quyền sở tại. Theo Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Điều 41, “Trụ trì là người thay mặt Giáo hội quản lý, điều hành các hoạt động của cơ sở tự viện theo đúng Hiến chương Giáo hội và pháp luật Nhà nước. Về mặt luật pháp, Trụ trì chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động phật sự tại cơ sở tự viện.”
Chùa Bác Ái từ khi thành lập đến nay trải qua nhiều đời Trụ trì. Có thể tạm thời phân chia thành ba thời đoạn để trình bày về các đời Trụ trì và sự chuyển mình của ngôi chùa như sau.
1. Từ năm 1933 đến 1950
Trong giai đoạn này, có hai đời Trụ trì và một đời Giám tự, đều là đệ tử của Hòa thượng Thích Hoằng Thông. Thứ nhất, khi thành lập chùa, đời Trụ trì đầu tiên là Ngài Thích Từ Vân, pháp danh Thị Niệm thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42, Ngài họ Lê tên Tế, thường gọi là thầy Lê Tế, là đệ tử của Hòa thượng Thích Hoằng Thông Trụ trì chùa Bạch Sa tỉnh Bình Định. Ngài Từ Vân làm Trụ trì chùa Bác Ái từ năm 1933 đến cuối năm 1944 thì về lại Bình Định. Thứ hai, năm 1945 chùa do Ngài Giác Đạo Trụ trì, tuy nhiên cuối năm 1946 theo lời kêu gọi thực hiện chiến lược Tiêu thổ kháng chiến vườn không nhà trống của Ban Chấp hành trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, để chống lại Thực dân Pháp, Ngài Giác Đạo lại rời chùa trở về Bình Định, lại một lần nữa chùa không ai trông coi. Năm 1947, chùa do thầy Trần Thân làm Giám tự đảm đương trông coi công việc Phật sự tại chùa, năm 1950 do chiến tranh khóc liệt Ngài Trần Thân cũng bỏ chùa về Bình Định.
Trong thời gian Trụ trì chùa Bác Ái, Ngài Từ Vân được triều đình sắc thưởng cấp độ điệp, phong làm “Tăng Cang” vào năm 1937 [Phụ lục 8], năm 1943 Ngài lại được sắc chuẩn thưởng “Tam hạng kim tiền”.
Trong thời gian này, diện tích chùa cũng được mở rộng thêm, năm 1935 mua lại hai lô đất khai hoang của hai vợ chồng bà Võ Thủy và ông Nguyễn Tăng. Vị trí lô đất này tiếp giáp với mặt tiền của chùa, một lô được 3 mẫu 2 sào 6 thước và một lô được 1 mẫu 5 sào 8 thước. Hai lô đất này nằm ở vùng đất thấp có suối nước chảy quanh năm nên được trưng dụng trồng rau muống, vào năm 1999, tỉnh Kon Tum đã quy hoạch phần đất này làm công viên nước ngay trung tâm thành phố [Phụ lục 9].
Năm 1940, Nhân dân tại xã Phương Hòa hiến cúng lô đất để chùa làm đất trồng lúa, diện tích được 3 mẫu 9 thước, lô đất này hiện nay đã không thuộc quyền sử dụng của chùa [Phụ lục 10].
2. Từ năm 1950 đến 1991
Kể từ khi Ngài Trần Thân trở về Bình Định thì việc hương khói kinh kệ tại chùa hầu như bị bỏ ngỏ. Lúc bấy giờ chùa do một ban Quản trị gồm nhiều người điều hành như: Nguyễn Dung Lý trưởng hưu trí làng Võ Lâm, làm cố vấn kiêm Trưởng ban Quản trị, kiêm Phó Quản tự; Dương Liễu làm Quản tự; Nguyễn Nhạc làm Tri tự; Nguyễn Kỹ làm Trưởng ban Nghi lễ; còn một số thành viên khác như: Phạm Thường, Trần Tài, Nguyễn Nhân, Lê Xuân Chung.
Đại diện ban Quản trị, ông Nguyễn Dung đã ra Huế trình qua cho ông Võ Chuẩn về tình hình hiện tại của chùa. Nhân đó, ông Võ Chuẩn thưa qua Hòa thượng Trí Hưng, tiến cử thầy Thích An Chánh nguyên là Chủ tọa Tổng Hội Phật giáo Trung Việt lên Trụ trì, đảm đương Phật sự tại địa phương từ năm 1950 [Phụ lục 11]. Tuy nhiên, năm 1954, có một nhóm người vì mưu lợi cá nhân muốn tranh giành chùa với Ngài An Chánh, nên Ngài lại phải trở về Huế, Đến năm 1955, khi có sự can thiệp của chính quyền, Ngài mới trở lên Kon Tum tiếp tục điều hành Phật sự tại chùa.
Ngài Thích An Chánh thế danh Trần Văn Sách, pháp danh Như Vinh, tự Giải Lộc, hiệu An Chánh, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 41. Ngài sinh năm 1922 tại thôn Cổ Phú, xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Vốn sinh trưởng trong gia đình Nho giáo, do mẹ mất sớm nên khi lên 6 tuổi Ngài được gia đình cho vào chùa theo các thầy học chữ Nho, vì thế khi lớn lên, Ngài nổi danh uyên thâm Nho học, đặc biệt hơn là tài năng viết chữ Hán, với đường nét sắc sảo khó có người sánh kịp.
Năm 1934, lúc lên 12 tuổi, Ngài được thế độ xuất gia học Phật với Bổn sư là Hòa thượng Thích Trí Hưng tại chùa Sắc Tứ Từ Lâm, xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, pháp danh là Như Vinh. Là người đệ tử đầu tiên của Hòa thượng, với tư chất thông minh, cộng với sự hiếu học, đặc biệt với vốn kiến thức Hán học, nên Ngài tiếp xúc với kinh điển rất dễ dàng, sớm nổi danh là một tu sĩ tài giỏi xuất chúng.
Sau bảy năm học đạo, năm 1941, khi vừa tròn 20 tuổi, Ngài thọ Tam đàn Cụ túc giới tại Giới đàn chùa Sắc Tứ Thạch Sơn, xã Nghĩa Phú, tỉnh Quảng Ngãi do Hòa thượng Diệu Nguyên làm Đàn đầu Hòa thượng, được đặt pháp tự là Giải Lộc, pháp hiệu là An Chánh.
Năm 1938, Hội An Nam Phật học tại Quảng Ngãi do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và bác sĩ Hoàng Mộng Lương chủ trương thành lập, đặc trách bác sĩ Hoàng Mộng Lương làm hội trưởng [33, tr. 250], Đại học sĩ Triều Nguyễn là Lâm Tô Bích, pháp danh Thị Độc, làm Phó hội trưởng. Giáo sư Phan Tiên làm thư ký. Theo sử liệu ghi chép trong tác phẩm Danh Tăng Việt Nam, Hội An Nam Phật học còn “Cung thỉnh Đại lão Hòa thượng Hoằng Thạc, Hòa thượng Diệu Quang và Hòa thượng Trí Hưng làm Chứng minh Đạo sư kiêm cố vấn đạo hạnh cho hội” [1, tr. 729]. Cho nên, trong bối cảnh này, Ngài được theo làm thị giả cho Hòa thượng Hoằng Thạc và Hòa thượng Trí Hưng. Ngài có nhiều cơ hội tiếp xúc, học tập với nhiều vị danh tăng đương thời, trong lĩnh vực chấn hưng Phật giáo.
Năm 1945, theo sử liệu trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, “Từ Nam ra Bắc, Phật tử đủ các giới tham dự vào Cách mạng. Các đoàn thể Tăng già Cứu quốc và Phật giáo Cứu quốc được thành lập khắp nơi” [20, tr. 744]. Cùng năm này, báo Đuốc Tuệ ở miền Bắc lên tiếng kêu gọi Tăng Ni các nơi nhanh chóng thành lập Đoàn Tăng già Cứu Quốc, theo mục đích ấy mà tham gia vào công cuộc Cách mạng hiện thời. Đặc biệt, bìa sau báo Đuốc Tuệ số 257 - 258 xuất bản ngày 15 tháng 8 năm 1945 đăng những khẩu hiệu và những lời kêu gọi tham gia kháng chiến:
“Ủng hộ chính quyền Nhân dân
Mau mau gia nhập Đội quân Giải phóng Việt Nam
Chống mọi cuộc xâm lăng
Việt Nam độc lập hoàn toàn
Hãy sửa soạn nghênh tiếp Chính phủ Lâm thời
Và Đoàn quân Giải phóng sắp về tới nơi
Hãy đọc Cứu Quốc, cơ quan của Mặt trận Việt Minh”.
Đó là lời kêu gọi vì lòng yêu nước, vì tinh thần độc lập tự chủ của một dân tộc, chứ không phải xuất phát từ một phe phái chính trị nào, nên được Tăng Ni và Phật tử nhiệt tình hưởng ứng. Ngài An Chánh cũng không ngoại lệ, từ khi tiếp xúc với những lời kêu gọi trên, Ngài cũng tích cực tham gia trong hội Phật giáo Cứu quốc Trung bộ và Thừa Thiên do Hòa thượng Trí Thủ và một số vị tăng sĩ khác đồng thành lập, thể hiện được tinh thần của một công dân yêu nước.
Tuy nhiên, theo Việt Nam Phật giáo sử luận mô tả, con đường Cách mạng không đơn giản như trên sách vở, mà: “Là một con đường đầy chông gai hiểm trở, không phải là những chông gai hiểm trở vật chất mà là những xót xa và rách nát của tâm hồn gây nên do áp lực phải lựa chọn. Dấn thân vào Cách mạng bằng một tâm hồn trong trắng, chỉ trong vòng hai ba năm là tâm hồn ấy có thể rách nát, bầm tím và có khi chai sạn. Nguyên do thảm trạng này là hiện tượng cạnh tranh của các phe phái chính trị và tính cách bất khoan dung của các ý thức hệ.” [20, tr. 749]
Chính vì còn nhiều vấn đề tồn đọng không thể giải quyết được nên Hòa thượng An Chánh đã buông bỏ tất cả trở lại chốn thiền môn, tiếp tục công cuộc phụng sự cho Đạo pháp.
Năm 1947, Ngài tiếp tục theo Hòa thượng Trí Thủ tham gia trong phong trào phục hồi lại các cơ sở Phật giáo đã hư hoại của Hội An Nam Phật học tại Huế. Cuối năm 1947, Ngài tham gia trong công tác chuẩn bị để tái khai giảng lớp Phật học tại Phật học đường Trung Việt chùa Báo Quốc. Tại đây, Ngài đã trải qua những ngày tháng chuyên tâm nghiên cứu giáo lý, đúc kết kinh nghiệp từ những vị tiền bối, để sau đó vào miền Nam hoạt động tại Phật học đường Lưỡng Xuyên tỉnh Trà Vinh trong hai năm.
Năm 1950, Ngài trở lại Huế, thường trú tại chùa Báo Quốc. Cũng trong năm này, cụ Võ Chuẩn đại diện cho lời thỉnh cầu của bổn đạo, Phật tử tại tỉnh Kon Tum vào Huế trình lên Hội Sơn Môn Tăng Già Trung Việt do Hòa thượng Trí Hưng làm Hội trưởng, với mục đích cung thỉnh một vị thầy có đủ tài đức để lên Trụ trì chùa Bác Ái ở Kon Tum. Chính vì vậy, Hòa thượng An Chánh mới hội đủ nhân duyên đi lên Kon Tum làm công tác Phật sự.
Tuy là người có hòai bão và nhiệt huyết trong phong trào chấn hưng Phật giáo, nhưng vì tinh thần phụng sự của một Sứ giả Như Lai, vì muốn đem ánh sáng của Đức Phật đến với đồng bào Phật tử vùng Tây Nguyên Kon Tum, Ngài đành bỏ lại tất cả những công việc đang tham gia phụng sự tại Huế, để đến nơi rừng thiêng nước độc của nơi này, với 80% dân số là người đồng bào dân tộc thiểu số, để làm nhiệm vụ hoằng truyền Chánh pháp của Như Lai.
Ngày 17 tháng 2 năm 1950, Hòa thượng An Chánh chính thức Trụ trì chùa Bác Ái. Ngài là vị Tăng sĩ duy nhất hoạt động dấn thân phụng sự trên mảnh đất xa xôi này, nên trách nhiệm vô cùng lớn lao, vừa làm Tăng trưởng Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Kon Tum, kiêm nhiệm Trưởng ban Hoằng pháp. Năm 1954, Ngài thành lập tổ chức “Gia đình Phật tử Bác Ái”, đây là mô hình sinh hoạt Phật tử đầu tiên trên tỉnh Kon Tum.
Ngoài công việc xây dựng Tam bảo, Ngài còn mở những lớp dạy học, những khóa thực tập cắm trại cho thanh thiếu niên tại khuôn viên chùa Bác Ái, để đưa các em thiếu nhi sớm được tiếp xúc với đạo Phật, đào tạo những tầng lớp trẻ năng động cho đạo Phật, đó cũng là một cách phụng sự Phật pháp, lan tỏa ánh sáng của Đức Phật đến mọi người.
Đặc biệt, Ngài còn mua nhiều ruộng đất để làm kinh tế nuôi dưỡng tăng chúng, xây dựng ba ngôi chùa mới tại Kon Tum làm nơi tu học cho chư Tăng và Phật tử tại địa phương, như chùa Hoa Nghiêm ở xã Phương Hòa xây dựng năm 1959, chùa Pháp Hoa ở xã Hòa Bình xây dựng năm 1967, chùa Phật Quang ở xã Phương Quý xây dựng năm 1967.
Với học vấn uyên thâm, giới luật tinh chuyên, Ngài được thỉnh mời tham gia trong thành phần Ban Chức sự Giới đàn, làm đệ Nhị Tôn chứng tại Đại giới đàn tổ chức tại chùa Nghĩa Phương, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa năm 1957. Trong Giới đàn này, Hòa thượng Huệ Pháp khai sơn chùa Minh Tịnh tại tỉnh Bình Định được thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng.
Từ đó, vì mến mộ tài đức của của Hòa thượng An Chánh, Hòa thượng Huệ Pháp đã nhiều năm liền mời Ngài về chùa Minh Tịnh làm giáo thọ sư giảng dạy nhiều lớp giáo lý cho chư Tăng Ni và Phật tử khởi đầu từ năm 1957. Trong năm 1957, bà Tôn Nữ Thị Lịch còn hiến cúng thêm hai lô đất cho chùa với tổng diện tích là 7 mẫu 7 sào, với mục đích hồi hướng công đức cho chồng bà là ông Võ Chuẩn nhân mùa Vu lan rằm tháng 7 [Phụ lục 12].
Năm 1969, Hòa thượng An Chánh được tấn phong giáo phẩm Hòa thượng tại chùa Phước Long, Sài Gòn, nay thuộc phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy Phật sự đa đoan, nhưng Ngài cũng dành thời gian tham gia dịch thuật kinh sách, viết bài nghiên cứu Phật học, những tác phẩm còn được lưu giữ lại tại chùa Bác Ái như: Kinh Bát Đại Nhân Giác giảng giải, Cực lạc ngũ thanh, Lòng thương thể hiện, Ngày đại lễ Phật đản, Mừng Phật đản sanh, Kỷ niệm mừng Phật Thích Ca thành đạo, Tứ niệm xứ quán, Lược sử Đức Phật A Di Đà. Ngoài ra, còn có những tác phẩm được soạn thảo bằng chữ Hán, do chính tay Ngài viết với nét chữ vô cùng đặc biệt, ngay cả người Hoa cũng khó có thể viết như Ngài: Sa di luật giải, Lăng nghiêm thần chú, Kim Cang Bát nhã Ba la mật kinh, Thọ mạng Đà la ni kinh, Hồng danh kinh, Vu lan kinh, Nhị thời khóa tụng cổ đại bổn…
Từ năm 1950, đến 1991, Ngài đã làm lễ Quy y cho hàng vạn tín đồ Phật tử, nhiều lần trùng tu lại ngôi chùa bị hư hoại do các cuộc chiến tranh tàn phá. Sau bao năm phụng sự Phật pháp, sức khoẻ không còn sung mãn như tuổi đôi mươi, trong một cơn bạo bệnh, Ngài thâu thần thị tịch tại chùa Bác Ái nhằm ngày 23 tháng 8 năm 1991 trong niềm tiếc thương vô hạn của đồng bào Phật tử.
Hòa thượng An Chánh là một tấm gương mẫu mực về tinh thần dấn thân phụng sự Đạo pháp, bên cạnh đó, Ngài còn là một công dân có tấm lòng yêu nước nồng nàn. Ngài hưởng thọ 70 tuổi, 50 hạ lạp, nhục thân được nhập bảo tháp trong khuôn viên chùa Bác Ái. Trong di chúc [Phụ lục 13], Ngài để lại lời nhắn nhủ dành cho bổn đạo Phật tử: “Ngoài việc phải tu tập sửa đổi thân, khẩu, ý để tự hoàn thiện bản thân, thì phải ghi nhớ chùa Bác Ái là một di tích danh thắng có nhiều ý nghĩa của Phật giáo yêu nước Cổ Truyền ở tỉnh Kon Tum. Chùa đã có nhiều đóng góp cho phong trào yêu nước, nên Phật tử phải có trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn”.
3. Từ năm 1991 đến nay
Thể theo tâm nguyện của Hòa thượng An Chánh trước khi qua đời, Ngài có để lại bản di chúc [Phụ lục 14] giao lại ngôi chùa cho đệ tử là Hòa thượng Thích Chánh Quang tiếp tục kế thừa Trụ trì cho đến ngày nay.
Hòa thượng họ Trần, húy Văn Cầm, pháp danh Thị Chương, tự Tâm Huệ, hiệu Chánh Quang, sinh năm Bính Tuất (1946) tại làng Phú Thọ, xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi trong gia đình Nho giáo uyên thâm tín Phật. Thân phụ của Ngài là cụ ông Trần Tuất, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Đạm. Ngài là con thứ tư trong gia đình có bảy anh chị em, gồm bốn trai và ba gái.
Vốn tánh có túc duyên với Phật pháp, năm 1959, khi vừa tròn 13 tuổi, được sự chấp thuận của song thân phụ mẫu, Hòa thượng xuất gia tu học tại chùa Bác Ái do Ngài Thích An Chánh xuống tóc và cho Pháp danh Thị Chương, kế tục dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42. Đến năm 1965, sau khi Bổn sư gởi đến Tu viện Huệ Nghiêm học đạo được 8 tháng thì Ngài thi vào trường Đại học. Năm 1966 đến năm 1969, sau bốn năm miệt mài đèn sách dưới mái trường Đại học Vạn Hạnh, Ngài đã tốt nghiệp. Tháng 7 năm 1970, Ngài thọ Tam đàn Cụ túc giới [Phụ lục 15]. Năm 1980, Ngài trở về chùa Bác Ái để lo việc Phật sự khi Bổn sư lâm bệnh.
Năm 1983, Đại hội Phật giáo tỉnh Gia Lai - Kon Tum mời Hòa thượng Chánh Quang tham gia trong Ban Trị sự lâm thời nhiệm kỳ đầu tiên của tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Ngày 26 tháng 8 năm 1991 (Tân Mùi), Hòa thượng chính thức được thừa kế Trụ trì chùa Bác Ái.
Năm 1992, tham gia hội Trí thức Yêu nước tỉnh Kon Tum và Ban Liên lạc học sinh miền Nam. Cũng trong năm 1992, Hòa thượng được nhận giáo chỉ tấn phong giáo phẩm Thượng tọa và làm đệ Nhất Tôn chứng A xà lê trong Ban Chức sự Đại giới đàn tổ chức tại Tổ đình Long Thiền.
Năm 1997, Hòa thượng Chánh Quang đảm nhận Phó ban Thường trực Ban Trị sự lâm thời; năm 2000, làm Phó ban Thường trực, kiêm trưởng ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử tỉnh Kon Tum. Năm 2005, Đại hội nhiệm kỳ II Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Kon Tum, Ngài làm Phó ban Thường Trực, kiêm Trưởng ban Hoằng pháp tỉnh Kon Tum. Ngày 14 tháng 12 năm 2007, nhận giáo chỉ tấn phong giáo phẩm Hòa thượng. Năm 2008, chứng minh Ban Trị Sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Kon Tum đến nay. Tháng 11 năm 2017, Ngài là thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trong khoảng thời gian này Hòa thượng Thích Chánh Quang đã chỉnh trang ngôi chùa ngày càng tươm tất, những hoạt động của chùa ngày càng quy cũ hơn. Ngài đã từng bước đưa ngôi chùa bắt nhịp đồng bộ với sự phát triển của xã hội.
This document you requested has moved temporarily.
It's now at http://themes.suckhoevatreem.vn/.